Tiểu sử Đặng_Tiểu_Bình

Thời niên thiếu

Đặng Tiểu Bình sinh tại thôn Bài Phường, xã Hiệp Hưng, huyện Quảng An, phía đông tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc, và là con trai ông Đặng Thiệu Xương (tự Văn Minh), một địa chủ khá giả và là hội viên của một hội nhóm hoạt động bí mật nhằm khích động lật đổ triều đình quân chủ,[1] và bà Đàm Thị, vợ thứ hai. Bà vợ đầu không có con, bà thứ hai (Đàm Thị) sinh được một gái đầu và 3 trai: Đặng Tiên Liệt, Đặng Tiểu Bình, Đặng Khẩn, Đặng Thục Bình. Bà thứ ba sinh được một trai, bà thứ tư (Hạ Bá Căn) sinh được 2 trai, 3 gái. Mẹ đẻ Đặng Tiểu Bình mất sớm, nên sau này ông đã mời mẹ kế Hạ Bá Căn từ quê lên thủ đô sống chung cùng gia đình ông.

Sau khi vào học trung học tại huyện nhà, cha Đặng Tiểu Bình đã xin cho Đặng Tiểu Bình theo học Trường dự bị cần công kiệm học Trùng Khánh để chuẩn bị xuất dương sang Pháp. Ngày 7 tháng 9 năm 1920, sau khi được Tổng lãnh sự Pháp tại Trùng Khánh trực tiếp sát hạch, Hi Hiền cùng 79 bạn khác lên tàu thủy đi Marseille. Ông đã học ở Pháp, giống như những nhà cách mạng có tiếng khác của Châu Á như Hồ Chí MinhChu Ân Lai. Tại đây ông đã đi theo học thuyết Marx-Lenin, gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản năm 1922 và Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1924.

Năm 1926, Đặng Tiểu Bình rời Paris sang Nga học trường Đại học Tôn Trung Sơn Moscow. Ông cùng học với Tưởng Kinh Quốc.

Quay lại Trung Quốc

Cuối năm 1927, Đặng Tiểu Bình rời khỏi Nga để trở về Trung Quốc, nơi ông gia nhập quân đội của Phùng Ngọc Tường, một nhà lãnh đạo quân đội ở Tây Bắc Trung Quốc, người đã yêu cầu sự giúp đỡ của Liên Xô trong cuộc đấu tranh với các nhà lãnh đạo địa phương khác trong khu vực. Vào thời điểm đó, Liên Xô, thông qua Quốc tế cộng sản, một tổ chức quốc tế hỗ trợ các phong trào cộng sản, đã hỗ trợ liên minh của Cộng sản với Quốc dân đảng (KMT) được thành lập bởi Tôn Trung Sơn.

Đặng Tiểu Bình đến Tây An, thành trì của Phùng Ngọc Tường, tháng 3 năm 1927 với nỗ lực ngăn chặn sự phá vỡ liên minh giữa Quốc Dân Đảng và Cộng sản. Sau khi liên minh giữa Quốc Dân Đảng và Cộng sản tan rã, Phùng Ngọc Tường đứng về phía Tưởng Giới Thạch và những người Cộng sản khác như Đặng Tiểu Bình, bị buộc phải chạy trốn. Năm 1929, Ông dẫn đầu cuộc nổi dậy ở tỉnh Quảng Tây chống lại chính quyền của Quốc dân đảng. Cuộc nổi dậy thất bại và Ông đã đi đến tỉnh Giang Tây.

Hoạt động ở Thượng Hải và Vũ Hán

Sau khi rời quân đội Phùng Ngọc Tường ở phía tây bắc, Đặng Tiểu Bình đến thành phố Vũ Hán, trụ sở của những người Cộng sản. Vào thời điểm đó, ông bắt đầu sử dụng biệt danh "Tiểu Bình" và nắm giữ các vị trí nổi bật trong bộ máy Đảng. Ông tham gia phiên họp khẩn cấp lịch sử ngày 7 tháng 8 năm 1927, trong đó, theo chỉ thị của Liên Xô, Đảng cách chức Tổng bí thư của Trần Độc Tú, và Cù Thu Bạch. Ở Vũ Hán, Ông lần đầu tiên liên lạc với Mao Trạch Đông, người được các nhà lãnh đạo của Liên Xô ủng hộ.

Giữa năm 1927 và 1929, Đặng Tiểu Bình sống ở Thượng Hải, nơi ông đã giúp tổ chức các cuộc biểu tình, tuy nhiên bị chính quyền Quốc dân đảng khủng bố tàn bạo. Cái chết của nhiều chiến sĩ Cộng sản trong những năm đó đã làm giảm số lượng thành viên của Đảng Cộng sản. Trong giai đoạn này ở Thượng Hải, Ông đã kết hôn với một người phụ nữ Ông gặp ở Matxcova, Trương Tích Viên.

Chiến dịch quân sự ở Quảng Tây

Bắt đầu từ năm 1929, ông tham gia vào cuộc đấu tranh chống lại Quốc dân đảng ở Quảng Tây. Sự vượt trội của quân Tưởng Giới Thạch đã gây ra thương vong to lớn cho quân của Đảng Cộng sản. Chiến lược đối đầu của lãnh đạo Đảng là một thất bại vì đã gây nhiều thương vong. Câu trả lời cho thất bại này đã xúc tác cho một trong những thời kỳ khó hiểu nhất trong tiểu sử của Đặng Tiểu Bình: tháng 3 năm 1931, ông rời tiểu đoàn thứ bảy của Quân đội Cộng sản và chỉ xuất hiện một thời gian sau đó tại Thượng Hải.

Tiểu sử chính thức của ông nói rằng Đặng Tiểu Bình đã bị các cấp trên của ông buộc tội bỏ trốn khỏi khu vực chiến đấu trước khi chạy trốn đến Thượng Hải, nơi có các lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mặc dù ông không bị trừng phạt ở Thượng Hải, thời kỳ này vẫn chưa rõ ràng và nó được sử dụng chống lại ông về sự tận tụy của ông cho Đảng Cộng sản trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa.

Tại Giang Tây

Sau khi trở về Thượng Hải, Đặng Tiểu Bình biết được vợ ông bị sốt hậu sản và qua đời. Ngoài ra, ông phát hiện ra rằng nhiều đồng đội cũ của ông đã chết vì cuộc đàn áp của Quốc dân đảng chống lại Đảng Cộng sản.

Các chiến dịch chống Đảng Cộng sản ở các thành phố là một trở ngại đối với Đảng cộng sản và đặc biệt đối với các cố vấn Liên Xô. Trái ngược với cuộc cách mạng tổ chức tại thành thị, dựa trên kinh nghiệm của Liên Xô, nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Mao Trạch Đông đã nhìn nhận nông dân nông thôn như một lực lượng cách mạng ở Trung Quốc. Ở một vùng miền núi của tỉnh Giang Tây, nơi Mao Trạch Đông đã thiết lập một hệ thống chiến khu theo mô hình cộng sản, đã phát triển phôi của một quốc gia tương lai của Trung Quốc dưới chủ nghĩa cộng sản.

Tại một trong những thành thị quan trọng nhất ở Giang Tây, Thụy Kim, Đặng Tiểu Bình đã đảm nhiệm chức vụ Bí thư Đảng ủy vào mùa hè năm 1931. Năm 1933, ông trở thành giám đốc bộ phận tuyên truyền của Tỉnh ủy Giang Tây. Đó là lúc ông kết hôn với một phụ nữ trẻ ông gặp ở Thượng Hải tên là Kim Duy Ánh.

Những thành công tại Giang Tây khiến các nhà lãnh đạo đảng quyết định chuyển đến Giang Tây. Cuộc đối đầu giữa Mao Trạch Đông, các nhà lãnh đạo đảng, và các cố vấn Liên Xô ngày càng căng thẳng và cuộc đấu tranh quyền lực giữa hai bên đã dẫn đến việc giáng chức Đặng Tiểu Bình, người ủng hộ ý tưởng của Mao. Bất chấp sự xung đột trong đảng, Giang Tây đã trở thành thí nghiệm thành công đầu tiên. Giang Tây thậm chí còn phát hành tem và tiền giấy dưới danh nghĩa chính quyền Đảng cộng sản và quân đội Tưởng Giới Thạch cuối cùng đã quyết định tấn công Giang Tây.

Vạn lý trường chinh

Được gọi là Vạn lý trường chinh, tên đầy đủ là Nhị vạn ngũ thiên lý trường chinh. Vào tháng 10 năm 1934, do bị bao vây bởi quân đội của Tưởng Giới Thạch, những người Cộng sản đã buộc phải rời khỏi Giang Tây. Sử thi đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản Trung Quốc. Việc sơ tán rất khó khăn vì Quân Tưởng Giới Thạch đã chiếm giữ các vị trí trọng yếu. Vượt qua địa hình núi non và xa xôi, khoảng 100.000 người đã trốn thoát khỏi Giang Tây, bắt đầu một cuộc rút lui chiến lược dài qua nội địa Trung Quốc, và kết thúc một năm sau, khi khoảng 8.000 đến 9.000 người sống sót đến tỉnh Thiểm Tây.

Trong hội nghị vào đầu tháng Ba, một nhóm chính trị được gọi là 28 người Bolshevik (những người theo chủ nghĩa Marx chính thống), do Bác CổVương Minh dẫn đầu, bị lật đổ khỏi quyền lực và Mao Trạch Đông đã trở thành lãnh đạo mới của Đảng Cộng sản Trung Hoa. Đảng Cộng sản Trung Quốc thân Liên Xô đã kết thúc và một đảng mới lấy cảm hứng từ nông thôn nổi lên dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông. Đặng Tiểu Bình đã một lần nữa trở thành một nhân vật hàng đầu trong Đảng.

Cuộc đối đầu giữa quân Tưởng và quân Mao đã tạm thời bị gián đoạn, do cuộc xâm lược của Nhật Bản, buộc Quốc dân đảng phải thành lập một liên minh lần thứ hai với những người cộng sản để bảo vệ quốc gia chống lại sự xâm lăng bên ngoài.

Cuộc xâm lược của Nhật Bản

Cuộc xâm lược của quân Nhật vào năm 1937 đánh dấu sự khởi đầu của cuộc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai. Trong cuộc xâm lược, Đặng Tiểu Bình vẫn còn trong khu vực được kiểm soát bởi những người Cộng sản ở phía bắc. Từ tháng 9 năm 1937 cho đến tháng 1 năm 1938, ông sống trong các tu viện Phật giáo và các ngôi chùa ở dãy núi Ngũ đài sơn. Vào tháng 1 năm 1938, ông được bổ nhiệm làm Ủy viên chính trị của bộ phận 129 của Bát Lộ Quân do Lưu Bá Thừa chỉ huy, bắt đầu một quan hệ đối tác lâu dài với Lưu.

Trong một chuyến đi đến Diên An vào năm 1939, Đặng Tiểu Bình kết hôn lần thứ ba và lần cuối cùng trong đời với Phố Trác Lâm, người Tuyên Uy, tỉnh Vân Nam.

Tiếp tục chiến tranh chống Quốc dân đảng

Bài viết này là một phần của loạt bài về
Chính trị Trung Hoa[2]

Thế hệ Lãnh đạoHiến pháp Trung HoaLãnh đạo Tối caoTập thể tối cao
Ý thức hệ Tổ chức Đảng

Lịch sử Đảng
Quyền lực Hành pháp Tổ chức Quốc vụ viện
Lịch sử Quốc vụ viện
Lập pháp Tổ chức Nhân ĐạiChính Đảng Nhân Đại

Lịch sử Nhân Đại
Mặt trận đoàn kết Tổ chức Chính Hiệp
Lịch sử Chính Hiệp
Hệ tư tưởngThế kỷ XXI Trung Hoa
Luật pháp


Chủ nghĩa xã hội Trung HoaLãnh đạo Nhà nước Tổ chức Nhà nước
Vì Nhân dân phục vụGiải phóng Tổ chức Quân độiLực lượng quân sự
Quân khu
Lịch sử Giải phóng quân tiêu biểu
Chống tham nhũng
Kiểm soát Tư pháp

Tuyên truyền Trung Hoa

Chủ nghĩa dân tộcHồng Kông - Ma Cao

Trung Hoa - Đài Loan
Khu vực khác
Chính sách đối ngoại




Quan hệ ngoại giao


Kinh tế Trung Hoa
Dân sốTôn giáo
Trước 1949
Lịch sử Trung Hoa 1949 - 1976
Thời kỳ 1976 - 2012
Thời kỳ kể từ 2012
Phân cấp hành chínhBí thư Tỉnh ủy (thứ nhất)Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân (thứ hai)
Chức vụ cao cấp
Bảng Công vụ viên

Sau thất bại của Nhật Bản trong Thế chiến II, Đặng Tiểu Bình đã đi đến Trùng Khánh, thành phố nơi Tưởng Giới Thạch thành lập chính phủ của mình trong cuộc xâm lược của Nhật Bản, để tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình giữa Quốc dân đảng và Đảng Cộng sản. Kết quả của những cuộc đàm phán này không tích cực và cuộc đối đầu quân sự giữa hai đảng đối lập tiếp tục ngay sau cuộc họp tại Trùng Khánh.

Trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Đặng Tiểu Bình lại thực hiện một vai trò quan trọng là lãnh đạo chính trị và là ủy viên chính trị của Quân đội số 2 do Lưu Bá Thừa chỉ huy. Ông cũng tham gia phổ biến những ý tưởng của Mao Trạch Đông, biến thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản. Công việc chính trị và ý thức hệ của ông, cùng với tư cách là cựu chiến binh của Vạn lý trường chinh, đã đặt ông vào một vị trí đặc quyền trong đảng để chiếm giữ các vị trí quyền lực sau khi Đảng Cộng sản đánh bại Tưởng Giới Thạch và thành lập Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.

Những năm tiếp theo

Đăng Tiểu Bình bên cạnh tổng thống Jimmy Carter

Sau giải phóng, Đặng Tiểu Bình làm Bí thư thứ nhất Cục Tây Nam Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch Quân ủy Tây Nam, Chính ủy Quân khu Tây Nam (đóng trụ sở tại Trùng Khánh), kiêm thành viên Chính phủ Nhân dân Trung ương.

Tháng 7 năm 1952, ông được cử làm Phó Tổng lý (Phó Thủ tướng) Chính vụ viện (sau đổi là Quốc vụ viện), kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-kinh tế. Năm 1955, ông cùng Lâm Bưu được bầu làm ủy viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm 1956, ông vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị, làm Tổng Bí thư Ban bí thư Trung ương, đứng cuối cùng (thứ 6) trong Ban Thường vụ, sau Mao Trạch Đông (Chủ tịch Đảng), Lưu Thiếu Kì, Chu Ân Lai, Chu ĐứcTrần Vân (đều là Phó Chủ tịch Đảng).

Năm 1966, trong Cách mạng văn hóa, Đặng Tiểu Bình bị phê phán nặng nề là "tên số hai trong Đảng đi theo chủ nghĩa tư bản", rồi bị cách tuột hết mọi chức vụ. Từ năm 1969 đến năm 1972, hai vợ chồng ông bị đưa về Giang Tây, con cái đều bị đưa đi cải tạo ở các tỉnh khác.

Ngày 20 tháng 3 năm 1973, Đặng Tiểu Bình rời Giang Tây, quay trở lại Trung Nam Hải (Bắc Kinh), sau khi được phục hồi công tác. Ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, rồi Phó Chủ tịch Đảng. Về mặt chính quyền, ông trở lại cương vị Phó Thủ tướng, rồi Phó Thủ tướng thứ nhất. Khi Chu Ân Lai lâm bệnh nặng, ông chủ trì công việc của Quốc vụ viện.

Năm 1976, sau khi Chu Ân Lai mất, nhóm chống đối ("bè lũ bốn tên") viện cớ Đặng Tiểu Bình có tư tưởng phản cách mạng và tác động đến Mao Trạch Đông, vì vậy ông lại bị Mao Trạch Đông cách hết các chức vụ, chỉ còn danh hiệu đảng viên và hộ khẩu Bắc Kinh. Ông là người phát động phong trào biểu tình ủng hộ cố thủ tướng Chu Ân Lai ngày 5 tháng 4 năm 1976.

Sau khi nhóm người được gọi là "bè lũ bốn tên" bị lật đổ, Đặng Tiểu Bình được khôi phục tất cả các chức vụ (1978): Phó Chủ tịch Đảng, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng.

Thời kỳ đổi mới

Hội nghị Trung ương lần thứ 3, khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 18-12-1978 diễn ra tại Bắc Kinh với quyết định cải cách và mở cửa đã mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước. Quyết định của Hội nghị đã khơi mào đưa Trung Quốc vươn lên từ sự sụp đổ kinh tế sau Cách mạng văn hóa (1966-1976). Đặng Tiểu Bình là cha đẻ của công cuộc hiện đại hóa, kiến trúc sư của công cuộc cải cách, mở cửa vĩ đại tại đất nước đông dân nhất thế giới. Ông chủ trương "Cải cách và cởi mở", mục tiêu của cải cách này tóm tắt bằng tiêu đề "Bốn hiện đại" gồm các thay đổi về nông nghiệp, kỹ nghệ, khoa học-kỹ thuật và quân sự.

Lúc đó, Đặng Tiểu Bình tuyên bố: “Chúng ta phải học cách quản lý kinh tế bằng các phương tiện kinh tế”. Theo đó, ở bước đi đầu tiên, chính sách công xã trong nông nghiệp và công nghiệp được hủy bỏ, thay vào đó là các trang trại tư nhân quy mô nhỏ... Ông khuyến khích người dân tự vươn lên sản xuất, làm giàu bởi theo ông, “nghèo không phải là xã hội chủ nghĩa”.

Chính Đặng Tiểu Bình đã thiết lập một nền tảng vững chắc cho công cuộc cải tổ và các chính sách mở cửa, xây dựng học thuyết hiện đại. Ông chủ trương hòa bình và phát triển là 2 vấn đề quan trọng của thế giới đương đại, tạo cơ sở cho Đảng và chính phủ Trung Quốc chuyển trọng tâm sang hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Ông kiên định quan điểm phải mở cửa để hội nhập với thế giới bên ngoài, mở rộng trao đổi với các nước khác trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi... Năm 1980, Thâm Quyến - đặc khu kinh tế đầu tiên của Trung Quốc - được thành lập, là sự thử nghiệm của mô hình kinh tế thị trường. Từ một làng chài với 30.000 dân, Thâm Quyến đã trở thành một trung tâm kinh tế có 12 triệu người, kéo theo sự ra đời sau đó của các đặc khu kinh tế khác: Chu Hải, Sán Đầu và Hạ Môn, tạo ra động lực phát triển cho toàn bộ đất nước Trung Quốc.

Xung đột Việt - Trung (1979-1990)

Chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979

Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện đại và vừa dọn đường đánh Việt Nam. Ngày 28 tháng 01 năm 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ nhằm bình thường hoá quan hệ hai nước. Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2 năm 1979, Đặng Tiểu Bình triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, Đặng Tiểu Bình đưa khoảng từ 300 ngàn đến 600 ngàn quân tấn công Việt Nam. Sự kiện này được ghi nhận là chiến tranh biên giới Việt-Trung 1979 mà kéo dài cho tới 1990 (xem Xung đột Việt–Trung 1979–90).

Động cơ chính của Trung Quốc trong tấn công Việt Nam là kiềm chế tham vọng Việt NamĐông Nam Á, ngăn chặn mối đe dọa Việt Nam đối với an ninh quốc gia Trung Quốc và phơi bày chỗ yếu của Liên Xô. Ý định của Đặng Tiểu Bình nêu công khai là “dạy cho Việt Nam một bài học” đã tạo ra một ấn tượng sai lệch rằng mục đích chính của cuộc chiến chỉ đơn giản là một “hành động trả thù”. Ngay từ đầu, Bắc Kinh đã hạn chế nghiêm ngặt các mục tiêu, thời gian và phạm vi, và tiến hành chiến tranh tránh vượt hơn một cuộc xung đột biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, sau khi Việt Nam đã đưa quân dánh đuổi chế độ Pol PotCampuchia, một đồng minh của Trung Quốc.[3] Trung Quốc mở rộng mục tiêu gồm cả việc xâm lược vùng Tây Bắc Việt Nam. Suốt một thời gian dài sau đó, chính sách bao vây kinh tế và pháo kích biên giới của Đặng Tiểu Bình đã gây nhiều khó khăn cho Việt Nam.[4]

Hồng Kông - Ma Cao

Ngày 19 tháng 12 năm 1984 Trung Quốc và Anh đã ký một thỏa ước theo đó, phần đất Hồng Kông sẽ được trả về cho Trung Quốc vào năm 1997 sau khi thỏa ước thuê đất trong 99 năm hết hạn. Đặng Tiểu Bình cũng cam kết không can thiệp vào hệ thống chính trị của Hồng Kông trong 50 năm. Thỏa thuận tương tự cũng được ký kết với Bồ Đào Nha để nước này trả thuộc địa Ma Cao. Với chính sách là "Một quốc gia, hai chế độ"

Sự kiện Thiên An Môn

Thiên An Môn - 1989

Vào năm 1989, Sự kiện Thiên An Môn diễn ra, đây là cuộc biểu tình đòi dân chủ của các sinh viên Trung Quốc. Một số nguồn cho rằng Đặng Tiểu Bình theo phe ủng hộ sự thay đổi trong nền kinh tế Trung Quốc, cùng với một số đồng minh như Triệu Tử Dương. Không có một báo cáo chính xác về vai trò của Đặng Tiểu Bình trong cuộc biểu tình, dù có một số người tin rằng ông ta đã tham gia vào việc ra lệnh cho quân đội trấn áp cuộc biểu tình. Theo ước đoán của tờ New York Times thì có ít nhất 10,000 thường dân thiệt mạng trong cuộc đụng độ. Sau sự kiện Thiên An Môn, Trung Quốc thực hiện lùng bắt một cách có quy mô những người ủng hộ phong trào này, giới hạn các nhà báo nước ngoài và kiểm duyệt tất cả báo chí trong nước. Sự kiện này bị các nước phương Tây lên án, cho đến tận ngày nay đa số người dân Trung Quốc không biết đến sự kiện này do Trung Quốc kiểm duyệt rất gắt gao.

Qua đời

Vào tháng 11 năm 1989 Đặng Tiểu Bình chính thức về hưu khi không còn là Chủ tịch của Quân ủy trung ương rồi rút lui khỏi hoạt động chính trị vào năm 1992. Tuy nhiên Ông vẫn được coi là nhà lãnh đạo tối cao và nhiều người tin rằng Ông vẫn kiểm soát Trung Quốc ở phía sau.

Đặng Tiểu Bình qua đời vào ngày 19 tháng 02 năm 1997 ở tuổi 92 vì bệnh Parkinson và bệnh phổi. Sau đám tang thi hài của ông được hỏa táng và tro hài cốt được rải xuống biển như theo mong ước của chính Đặng Tiểu Bình.